Ngày 19/10, ghi nhận tại các tỉnh trọng điểm vùng Đồng bằng sông Cửu Long như An Giang, Đồng Tháp, Sóc Trăng và Long An, giá lúa gạo vẫn ổn định so với hôm qua. Nguồn cung ra thị trường vừa phải giúp thương lái duy trì hoạt động thu mua đều, không xảy ra tình trạng ứ đọng sau vụ Hè Thu.
Ở nhóm lúa tươi, giá phổ biến từ 5.000 – 6.000 đồng/kg. Cụ thể, giống IR 50404 đang dao động 5.000 – 5.200 đồng/kg, OM 5451 ở mức 5.400 – 5.600 đồng/kg, trong khi Đài Thơm 8 vẫn giữ 5.800 – 6.000 đồng/kg. Đây được xem là mức giá khá ổn định, đảm bảo lợi nhuận cơ bản cho người trồng trong bối cảnh thị trường xuất khẩu chưa thực sự khởi sắc.
Trong nhóm gạo nguyên liệu phục vụ xuất khẩu, giá vẫn neo cao. Gạo OM 18 hiện dao động 8.500 – 8.700 đồng/kg; IR 504 giữ mức 7.900 – 8.050 đồng/kg; OM 5451 đạt 8.100 – 8.200 đồng/kg; OM 380 ở khoảng 7.800 – 7.900 đồng/kg; còn CL 555 duy trì 8.150 – 8.250 đồng/kg.
Giá gạo thành phẩm tại kho cũng không biến động lớn. OM 380 bán ra ở mức 8.800 – 9.000 đồng/kg, IR 504 dao động 9.500 – 9.700 đồng/kg. Một số doanh nghiệp tại Long An, Cần Thơ cho biết các đơn hàng sang châu Phi vẫn đều đặn, trong khi các đối tác lớn ở Philippines và Indonesia tạm ngừng ký mới để rà soát hạn ngạch nhập khẩu.
Tại các chợ dân sinh ở TP.HCM, Cần Thơ và miền Tây, giá gạo bán lẻ duy trì ổn định. Gạo Nàng Nhen vẫn giữ mức cao nhất 28.000 đồng/kg, Hương Lài ở mức 22.000 đồng/kg, Jasmine phổ biến 16.000 – 18.000 đồng/kg. Các loại gạo thơm nhập khẩu như Thái, Nhật hoặc Sóc Thái dao động 20.000 – 22.000 đồng/kg.
Trong khi đó, nhóm gạo trắng thông dụng – phục vụ nhu cầu tiêu dùng đại trà – vẫn duy trì 13.000 – 16.000 đồng/kg. Việc giá bán lẻ không tăng mạnh cho thấy thị trường trong nước đang ở trạng thái cân bằng, vừa đảm bảo lợi ích người tiêu dùng, vừa giữ ổn định thu nhập cho nông dân.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), giá gạo trắng 5% tấm của Việt Nam hiện được chào bán ở mức 372 – 376 USD/tấn, gạo thơm 5% tấm dao động 420 – 450 USD/tấn, còn Jasmine đạt 486 – 490 USD/tấn. So sánh khu vực, giá gạo Việt Nam vẫn cao hơn Ấn Độ (364 – 368 USD/tấn), Pakistan (347 – 351 USD/tấn) và Thái Lan (335 – 339 USD/tấn).
Tuy giữ lợi thế về chất lượng và giá trị, xuất khẩu gạo Việt Nam đang gặp khó khi Philippines – thị trường chiếm gần 50% lượng xuất khẩu – tạm dừng ký đơn hàng mới trong 60 ngày, có thể kéo dài đến hết năm. Riêng tháng 9, xuất khẩu gạo sang quốc gia này giảm tới 93% về khối lượng và 92% về giá trị so với tháng 8.
Tương tự, Indonesia – thị trường lớn thứ hai – cũng đang duy trì hạn ngạch nhập khẩu nghiêm ngặt. Khoảng 500.000 tấn gạo đang chờ thông quan tại cảng, khiến nhiều doanh nghiệp Việt gặp khó về chi phí lưu kho và quay vòng vốn. Tình trạng này nếu kéo dài có thể ảnh hưởng đến tốc độ thu mua nguyên liệu trong nước.
Trước tình hình xuất khẩu bị gián đoạn, nhiều doanh nghiệp Việt đang chủ động tìm hướng đi mới, mở rộng sang các thị trường tiềm năng như châu Phi, Trung Đông và Nam Mỹ. Dù các khu vực này có yêu cầu khắt khe về chất lượng, song đây là hướng đi cần thiết để giảm phụ thuộc vào một vài đối tác lớn.
Các chuyên gia nhận định, việc duy trì ổn định giá trong nước trong giai đoạn này là tín hiệu tích cực. Tuy nhiên, để đảm bảo tăng trưởng bền vững, ngành gạo Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh các dòng sản phẩm cao cấp như ST24, ST25, Jasmine, gạo hữu cơ – nhóm sản phẩm có biên lợi nhuận cao và ít chịu tác động từ biến động chính sách.
VFA khuyến cáo doanh nghiệp không nên phá giá xuất khẩu nhằm giữ hình ảnh gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đồng thời, cần tăng cường xúc tiến thương mại, đa dạng hóa thị trường và xây dựng thương hiệu gạo quốc gia, hướng đến mục tiêu nâng tầm giá trị hạt gạo Việt trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Giới phân tích dự báo giá lúa gạo trong nước tuần tới (20–26/10) sẽ tiếp tục ổn định quanh mức hiện tại. Dù xuất khẩu sang Philippines và Indonesia tạm chững, nhu cầu từ châu Phi và Trung Đông đang dần cải thiện, giúp thị trường duy trì trạng thái cân bằng.
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc giữ vững giá và đảm bảo thu nhập cho nông dân là yếu tố then chốt. Nếu các doanh nghiệp tận dụng tốt cơ hội mở rộng thị trường và nâng chất lượng sản phẩm, ngành gạo Việt Nam hoàn toàn có thể duy trì đà tăng trưởng ổn định trong những tháng cuối năm.
Giá lúa gạo hôm nay 19/10/2025 vẫn ổn định ở Đồng bằng sông Cửu Long, lúa tươi phổ biến 5.000 – 6.000 đồng/kg. Dù xuất khẩu sang Philippines và Indonesia tạm thời chững lại, thị trường trong nước vẫn vững, tạo nền tảng cho ngành gạo Việt Nam phát triển bền vững và khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế.